Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi Tiến sĩ Nguyễn Văn Tình và Tiến sĩ Ngô Anh Tiến – Ngân hàng máu cuống rốn, Viện Nghiên cứu Tế bào gốc & Công nghệ gen Vinmec.
Hiện nay, “thu thập máu cuống rốn” và “lưu trữ tế bào gốc máu cuống rốn” không còn là những khái niệm xa lạ. Rất nhiều gia đình lựa chọn lưu trữ máu cuống rốn cho trẻ sơ sinh như một hình thức mua bảo hiểm sinh học trọn đời cho con. Vậy lợi ích của những việc làm này là gì, thu thập máu cuống rốn có ảnh hưởng gì đến trẻ không?
Cuống rốn và bánh nhau là bộ phận giúp cung cấp chất dinh dưỡng nuôi thai nhi trong tử cung người mẹ. Máu cuống rốn là máu được lấy từ cuống rốn và nhau thai sau khi sinh và cắt rốn. Trước đây, cuống rốn và nhau thai được xem như một loại rác thải y tế và thường được bỏ đi sau mỗi ca sinh nở. Tuy nhiên, các nghiên cứu y học đã chỉ ra rằng, máu cuống rốn cung cấp dồi dào tế bào gốc tạo máu và được ứng dụng trong hỗ trợ, điều trị nhiều bệnh lý khác nhau. Đặc biệt, khả năng ứng dụng của tế bào gốc tạo máu được lấy từ cuống rốn tương tự như tế bào gốc tạo máu được lấy từ trong tủy xương và máu ngoại vi. Do đó, lưu trữ MCR thực chất là lưu trữ nguồn tế bào gốc quý giá phục vụ cho việc hỗ trợ, điều trị nhiều bệnh lý và rối loạn tế bào trong tương lai.
Máu cuống rốn là nguồn cung cấp dồi dào tế bào gốc.
Tế bào gốc là dạng tế bào đặc biệt, có khả năng tự tái tạo và biệt hoá thành những tế bào chuyên biệt. Chính những đặc điểm này mà tế bào gốc đang được nghiên cứu, ứng dụng rộng rãi trong điều trị bệnh di truyền, bệnh do cơ quan tạo máu và bệnh miễn dịch.
Hiện nay, Tế bào gốc lấy từ máu cuống rốn có thể được sử dụng trong điều trị và hỗ trợ hơn 80 bệnh lý như: Bệnh bạch cầu, u lympho, ung thư máu, suy tủy, bệnh tự miễn (tiểu đường) hoặc các bệnh rối loạn di truyền (như thiếu máu, tan máu bẩm sinh),…Ngoài ra, tế bào gốc máu cuống rốn cũng có khả năng biệt hóa thành những tế bào của những mô khác như: Cơ (cơ vân, cơ tim), tế bào gan, tế bào thận, tế bào não, tế bào phổi, tế bào da và tế bào tuyến tụy,…Chính vì thế, ngoài điều trị huyết học, tế bào gốc máu cuống rốn còn được nghiên cứu trong điều trị nhiều bệnh lý khác như tổn thương tim, tổn thương tủy sống, tổn thương não.
Tế bào gốc có thể lấy từ 3 nguồn: Máu ngoại vi, tủy xương, máu cuống rốn. Tuy nhiên, việc lưu trữ tế bào gốc máu ngoại vi và tủy xương đòi hỏi kỹ thuật phức tạp, có xâm lấn và tốn kém hơn nên máu cuống rốn được ưu tiên sử dụng. Đặc biệt, tế bào gốc được lấy từ máu cuống rốn là những tế bào nguyên thủy hơn so với tế bào gốc được lấy từ máu ngoại vi và tủy xương. Nghĩa là tế bào gốc máu cuống rốn có độ thích ứng cao hơn, phát triển nhanh hơn và tạo ra những tế bào máu khỏe mạnh.
Nếu lưu trữ tế bào gốc từ máu cuống rốn thì trong tương lai đây sẽ là nguồn tế bào gốc phù hợp nhất, không gây ra những phản ứng thải ghép của cơ thể. Thậm chí, nếu người thân trong gia đình cần sử dụng tế bào gốc để điều trị thì khả năng phù hợp giữa người bệnh và mẫu tế bào gốc của trẻ sẽ cao hơn so với nguồn tế bào gốc từ những người không cùng huyết thống.
Tế bào gốc máu cuống rốn giúp điều trị nhiều căn bệnh hiểm nghèo.
Ngày nay, rất nhiều cha mẹ muốn lưu trữ máu cuống rốn cho con ngay khi trẻ vừa chào đời nhằm mục đích tạo nguồn dự trữ tế bào gốc cho tương lai và sử dụng trong các trường hợp cần thiết (điều trị và hỗ trợ điều trị bệnh lý). Hơn nữa, nguồn tế bào gốc này còn có thể được sử dụng trong điều trị bệnh cho những người thân trong gia đình nếu có chỉ số sinh học phù hợp.
Năm 1987, ca ghép tế bào gốc máu cuống rốn đầu tiên trên thế giới được bác sĩ Eliane Gluckman tại Bệnh viện Saint – Louis, Paris (Pháp) thực hiện. Bệnh nhân 5 tuổi mắc bệnh thiếu máu Fanconi, được ghép tế bào gốc từ máu cuống rốn của em gái sơ sinh. Ca ghép đã diễn ra thành công và kể từ đó, đã có hơn 40.000 ca ghép được thực hiện và hơn 25.000 bệnh nhân được cứu sống.
Thu thập máu cuống rốn được xem là kỹ thuật đơn giản, dễ thực hiện và không gây đau đớn cho cả mẹ và bé, có thể áp dụng cho cả sinh mổ và sinh thường.
Để lưu trữ máu cuống rốn thì trước khi sinh, người mẹ cần đến các cơ sở lưu trữ tế bào gốc máu cuống rốn xét nghiệm sức khỏe nhằm đảm bảo bản thân không mắc các bệnh như truyền nhiễm, ung thư, bệnh miễn dịch, nhiễm trùng và đảm bảo đủ điều kiện lưu trữ MCR theo quy định của cơ sở lưu trữ.
Tương tự như kỹ thuật lấy máu toàn phần, khi sản phụ sinh, nhân viên thu thập MCR sẽ sử dụng đầu kim của túi thu thập nối vào tĩnh mạch rốn và thu thập MCR dựa vào áp lực dòng chảy. Trong túi thu thập đã có chứa sẵn chất chống đông để ngăn hình thành cục máu đông. Máu cuống rốn có thể được thu thập trước hoặc sau khi sổ nhau.
Lấy máu cuống rốn là kỹ thuật dễ thực hiện, an toàn cho mẹ và bé.
Máu cuống rốn sau khi được thu thập sẽ được chuyển về ngân hàng để tiến hành các bước xử lý tiếp theo, nhằm loại bỏ những thành phần thừa, gạn tách lấy tế bào gốc và lưu trữ.
Nhiều gia đình băn khoăn về thời gian lưu trữ tế bào gốc máu cuống rốn. Trên thực tế, rất khó để xác định thời gian lưu trữ tối đa cho các tế bào gốc máu cuống rốn vì trên thế giới, các ngân hàng máu cuống rốn mới chỉ tồn tại được khoảng 30 năm. Tuy nhiên, các nhà khoa học cho rằng, tế bào gốc máu cuống rốn được bảo quản trong điều kiện âm sâu có thể lưu trữ được vô thời hạn. Điều này được dựa trên 2 giả thuyết:
Thu thập máu cuống rốn không gây bất kỳ rủi ro nào cho mẹ và bé. Ngày nay với kỹ thuật y học hiện đại, việc ứng dụng tế bào gốc trong điều trị những căn bệnh nan y đang ngày càng phổ biến. Vì vậy ngày càng nhiều gia đình lựa chọn lưu trữ máu cuống rốn, nhằm tạo nguồn tế bào gốc có sẵn trong trường hợp cần sử dụng để điều trị bệnh cho bản thân đứa trẻ hoặc các thành viên trong tương lai.