Ngộ độc botulinum thường được chẩn đoán qua phân tích mẫu phân và dịch nôn, điều trị bằng thuốc kháng độc tố, kháng sinh hoặc máy thở.
Botulinum là độc tố thần kinh cực mạnh, có thể khiến người nhiễm bị liệt cơ, rối loạn nhịp thở hoặc tử vong chỉ với 0,004 μg/kg. Nghi án botulinum gây chết người nổi tiếng nhất gần đây là sinh viên Mỹ Otto Warmbier, bị liệt khi đang ở Triều Tiên và sau đó qua đời tại quê nhà.
Các triệu chứng ban đầu bao gồm mệt mỏi, suy nhược, chóng mặt rõ rệt. Sau đó, người bệnh thường có biểu hiện mờ mắt, khô miệng, khó nuốt, khó nói. Một vài trường hợp gặp tình trạng nôn mửa, tiêu chảy, táo bón và trướng bụng.
Nếu không điều trị kịp thời, bệnh có thể tiến triển thành suy yếu cơ, cánh tay. Tiếp đến, các cơ quan hô hấp và vùng thân dưới bị ảnh hưởng. Người bị ngộ độc botulinum không gây sốt hay mất ý thức.
Các triệu chứng thường xuất hiện trong vòng 12 đến 36 giờ (phạm vi tối thiểu và tối đa là từ 4 giờ đến 8 ngày) sau khi tiếp xúc thực phẩm nhiễm khuẩn. Tỷ lệ ngộ độc thấp, song nguy cơ tử vong sau khi mắc là khá cao nếu không được điều trị kịp thời và phù hợp. Tỷ lệ tử vong sau khi nhiễm độc là 5-10%.
Để chẩn đoán ngộ độc botulinum, bác sĩ sẽ kiểm tra các dấu hiệu suy yếu hoặc liệt cơ như sụp mí mắt, nói thều thào. Bệnh nhân cũng được yêu cầu liệt kê các loại thực phẩm đã ăn trong khoảng một tuần.
Ở các ca ngộ độc trẻ sơ sinh, thường là do tiếp xúc với chất độc sau khi ăn mật ong, biểu hiện táo bón và chậm chạp.
Phân tích máu, phân hoặc dịch nôn cũng có thể giúp chẩn đoán ngộ độc botulinum. Song các xét nghiệm này thường mất nhiều ngày nên không được ưu tiên như khám lâm sàng.
Trong một số trường hợp, bệnh nhân được chỉ định đo điện tâm đồ, chụp cộng hưởng từ để kiểm tra dấu hiệu đột quỵ, chọc dò tuỷ sống giúp phân biệt với hội chứng có biểu hiện tương tự là Guillain-Barre.
Đối với các ca ngộ độc botulinum, bác sĩ sẽ điều trị bằng cách giải phóng hệ tiêu hoá, để bệnh nhân nôn hoặc tiểu tiện nhiều lần. Trong trường hợp ngộ độc từ vết thương hở, bác sĩ có thể phẫu thuật loại bỏ mô nhiễm trùng, tuỳ mức độ nghiêm trọng.
Một trong những cách chữa trị cơ bản đối với người được chẩn đoán sớm là tiêm kháng độc tố, làm giảm nguy cơ biến chứng. Thuốc sẽ liên kết với các chất độc vẫn đang lưu thông trong máu, giữ cho chúng không “chạy” vào hệ thần kinh.
Biện pháp này không thể khắc phục hoàn toàn tổn thương ban đầu mà botulinum đã gây ra. Song, các dây thần kinh có cơ chế tự tái tạo. Nhiều bệnh nhân hồi phục hoàn toàn, có những người mất vài tháng để điều trị.
Tại Việt Nam, bệnh viên Bạch Mai đã đề nghị mua thuốc giải độc từ Thái Lan để điều trị hai vợ chồng bị ngộ độc botulinum. Thuốc có tên gọi Botulism Antitoxin Heptavalent, được Bộ Y tế và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) hỗ trợ để đưa về Việt Nam nhanh nhất, kịp thời điều trị.
Thuốc giải độc Botulinum có gì đặc biệt?
Bác sĩ Nguyễn Trung Nguyên, Giám đốc Trung tâm Chống độc cho biết, loại thuốc này có tên Botulism antitoxin heptavalent (BAT), được sản xuất bởi Canada, chuyên dùng để giải độc botulinum.
Theo Cục Quản Lý Thực Phẩm Và Dược Phẩm Hoa Kỳ, thuốc BAT là hỗn hợp các kháng thể được ký hiệu A, B, C, D, E, F, G điều trị đặc hiệu cho các dạng của chất độc botulinum tương ứng.
Về cơ chế, BAT sẽ cung cấp đáp ứng miễn dịch thụ động cho cơ thể, thông qua các kháng thể mà nó sở hữu. Cụ thể, khi được tiêm vào người, các kháng thể này sẽ liên kết chặt với botulinum tự do, khiến chúng không còn tương tác được với thụ thể của tế bào thần kinh.
Nhờ cơ chế này, thuốc BAT giúp giảm thiểu đáng kể hiện tượng liệt, yếu cơ bắp của bệnh nhân ngộ độc botulinum. Bệnh nhân được giải độc sẽ giảm nguy cơ diễn biến nặng phải thở máy.
Đối với trẻ sơ sinh, bác sĩ trên thế giới thường sử dụng loại kháng độc tố riêng, được gọi là globulin.
Một trong những loại thuốc sử dụng để điều trị ngộ độc botulinum. (Ảnh: AP).
Trong một vài trường hợp, bệnh nhân được chỉ định dùng thuốc kháng sinh. Tuy nhiên phương pháp này không được khuyến nghị cho tất cả các loại ngộ độc botulinum vì chúng có thể đẩy nhanh quá trình phát tán độc tố.
Nếu cảm thấy khó thở, người bệnh có thể phải sử dụng máy thở trong vài tuần cho đến khi tác động của chất độc giảm dần. Quá trình có thể kéo dài hàng tuần, thậm chí hàng tháng.
Sau khi đã thải độc tố, một số bệnh nhân cần đến các liệu trình phục hồi chức năng để cải thiện khả năng nói, nuốt và các cơ quan các bị ảnh hưởng.
Để phòng ngừa nhiễm độc do botulinum, người dân cần thực hiện nguyên tắc “ăn chín, uống sôi”. Một số sản phẩm thanh trùng bằng nhiệt trong dây chuyền công nghiệp, thương mại (kể cả các mặt hàng được đóng gói chân không hoặc hun khói) có thể không đủ đảm bảo vệ sinh, chưa tiêu diệt toàn bộ bào tử vi khuẩn.
WHO từng đề ra Năm chìa khoá đối với An toàn Thực phẩm là: giữ sạch, nấu kỹ, để riêng đồ sống và chín, trữ thực phẩm ở nhiệt độ chuẩn, sử dụng nước và nguyên liệu an toàn.
Theo WHO, các ca ngộ độc hàng loạt đối với botulinum rất hiếm, nhưng đều là trường hợp khẩn cấp về sức khỏe cộng đồng, đòi hỏi nhận biết nhanh chóng nhằm xác định nguồn bệnh. Tiên lượng của bệnh nhân phụ thuộc đáng kể vào việc chẩn đoán sớm và điều trị phù hợp.
Mặc dù ngộ độc botulinum có thể gây ra các triệu chứng nghiêm trọng và kéo dài, hầu hết người mắc đều hồi phục hoàn toàn. Chữa trị từ giai đoạn đầu giúp làm giảm nguy cơ tử vong hoặc tàn tật vĩnh viễn.