Con số này cao gấp đôi so với ước tính của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đưa ra vào năm 2022, theo ETH Zurich.
Báo cáo cho biết thống kê trên chỉ xem xét khả năng tiếp cận nước sạch ở các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình, đồng nghĩa với việc con số này trên thực tế có thể sẽ cao hơn nhiều nếu tính đến khả năng tiếp cận kém ở các quốc gia có thu nhập cao hơn.
Theo nhà nghiên cứu Esther Greenwood thuộc ETH Zurich, trong số 22 tiểu vùng địa lý của Liên Hiệp Quốc, Nam Á và Nam sa mạc Sahara là những khu vực bị ảnh hưởng nhiều nhất.
Nghiên cứu dự đoán có tới hơn một nửa dân số trong 1,2 tỉ người sống trên khắp Ấn Độ, Afghanistan, Bangladesh, Bhutan, Iran, Maldives, Nepal, Pakistan và Sri Lanka không được sử dụng nguồn nước an toàn.
Tại châu Phi, hơn 80% trong số 1,1 tỉ người dân sống ở Nam sa mạc Sahara không thể tiếp cận nguồn nước an toàn.
Các khu vực châu Đại Dương (trừ Úc và New Zealand) và Đông Nam Á, cũng có khoảng 75% dân số bị ảnh hưởng. Theo nghiên cứu của ETH Zurich, khoảng một nửa dân số trên có thể tiếp xúc với nước uống bị ô nhiễm.
E. coli được sử dụng làm chỉ số tính toán tỉ lệ ô nhiễm, bởi khuẩn này có liên quan đến một số bệnh như bệnh tả, kiết lị, thương hàn…
Với người lớn khỏe mạnh, thông thường các triệu chứng bệnh nhẹ và hồi phục nhanh chóng, nhưng với trẻ em và người cao tuổi, nguy cơ suy thận và tử vong có thể xảy ra.
Mặc dù không được đưa vào nghiên cứu này, nhưng nồng độ asen và florua cũng được sử dụng để theo dõi tình trạng ô nhiễm hóa chất trong nước.
Ô nhiễm có thể có trong tự nhiên, với hơn 80% ô nhiễm nước ngầm có chứa florua và asen đều là do các quá trình địa chất. Cạnh đó, việc sử dụng hóa chất trong công nghiệp và đốt than cũng có thể góp phần gây ô nhiễm nước.