Đây là chia sẻ của GS.TS Nguyễn Viết Tiến, nguyên thứ trưởng Bộ Y tế, chủ tịch Hội Phụ sản Việt Nam, tại hội nghị quốc tế chuyên đề “Nâng cao tỉ lệ thành công trong hỗ trợ sinh sản: Khám phá giải pháp tìm đường trong mê cung để đến đích thành công”, do Hội Phụ sản Việt Nam phối hợp với Merck tổ chức từ ngày 7 đến 8-9, tại Hà Nội.
Vô sinh thứ phát tăng
Theo thống kê của Bộ Y tế, ước tính mỗi năm Việt Nam có khoảng 1 triệu cặp vợ chồng vô sinh hiếm muộn, tỉ lệ khoảng 7,7%. Đặc biệt, tình trạng vô sinh thứ phát (vô sinh sau một lần có thai) chiếm 3,8%. Đáng nói, tỉ lệ này đang tăng lên đến 15-20% sau mỗi năm và chiếm hơn 50% các cặp vợ chồng vô sinh.
Thống kê của WHO cũng chỉ ra Việt Nam là một trong những quốc gia nằm trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương có tỉ lệ sinh thấp dần và tỉ lệ vô sinh cao trên thế giới.
Ông Tiến cho rằng Việt Nam đang đối mặt với thách thức mức sinh ngày càng thấp, trong khi tỉ lệ vô sinh lại ở mức cao. Nguyên nhân do nhiều yếu tố như lối sống, tình trạng lập gia đình muộn, có con muộn.
“Xu hướng của Việt Nam kết hôn muộn. Việc kết hôn muộn làm giảm khả năng có thai. Bên cạnh đó, áp lực cuộc sống khiến nhiều người lo kinh tế đầy đủ mới sinh con. Lúc này, người phụ nữ có tuổi, ảnh hưởng tới khả năng sinh con dẫn đến tình trạng hiếm muộn”, ông Tiến phân tích.
Các chuyên gia cũng cho rằng nguyên nhân vô sinh, hiếm muộn còn do tỉ lệ phá thai cao, viêm nhiễm đường sinh dục, sử dụng dụng cụ tránh thai. Bên cạnh đó, sự hiểu biết về vô sinh của nhiều cặp vợ chồng còn hạn chế.
Theo ông Tiến, hiện nay trình độ điều trị vô sinh hiếm muộn của Việt Nam được đánh giá tương đương các nước trong khu vực, kỹ thuật phát triển rất nhanh. Tuy nhiên, điều thách thức là giá dịch vụ còn cao so với thu nhập của hầu hết người dân.
Ông đề xuất cần có chính sách, chủ trương, đổi mới trong thanh toán bảo hiểm y tế để từng bước đáp ứng nguyện vọng điều trị vô sinh hiếm muộn của người dân, đồng thời góp phần duy trì, ổn định chất lượng và số lượng dân số.
Trước đó đóng góp kiến nghị chính sách phát triển dân số bền vững, GS Nguyễn Thiện Nhân, nguyên bí thư Thành ủy TP.HCM, nguyên chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cũng cho rằng bên cạnh các chính sách an sinh, Nhà nước cần có chương trình hỗ trợ thiết thực cho các cặp vợ chồng vô sinh sinh con.
Nhiều nước đã chi trả bảo hiểm y tế điều trị hiếm muộn
Ông Tiến cũng dẫn chứng trên thế giới, nhiều nước coi hiếm muộn là bệnh lý và dùng bảo hiểm y tế chi trả cho bệnh nhân. Ví dụ, Pháp cho IVF đến 4 lần, sang lần thứ 5 bệnh nhân mới phải trả tiền. Trung Quốc cũng đưa 16 dịch vụ hỗ trợ sinh sản vào hạng mục được chi trả từ năm 2022.
Các nghiên cứu của Merck Healthcare cũng cho thấy tại các nước Tây Âu, hầu hết đã chi trả cho điều trị hiếm muộn qua các biện pháp có sẵn, tiêu chí phù hợp cho chi trả bảo hiểm như tuổi, tình trạng hôn nhân…
Hay tại Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan cũng đã chi trả một số mức bao phủ cho điều trị hiếm muộn. Cụ thể, từ năm 2021 Đài Loan đã mở rộng trợ cấp cho IVF và chỉ sau 18 tháng đã có thêm hơn 15.000 trẻ em được sinh ra bằng phương pháp này bằng các khoản trợ cấp.
Ông Alexandre De Muralt, phó chủ tịch Merck Healthcare châu Á – Thái Bình Dương, cho biết hội nghị là cơ hội để cập nhật thông tin về hỗ trợ sinh sản trong khu vực châu Á, với mục tiêu chính là giúp các cặp vợ chồng hiếm muộn rút ngắn thời gian thụ thai.
Một bộ công cụ chính sách can thiệp thực tiễn mức sinh cho các nước khu vực châu Á – Thái Bình Dương cũng được giới thiệu. Đây là một phần quan trọng trong dự án Fertility Counts, một sáng kiến nhằm giải quyết các thách thức về kinh tế và xã hội liên quan đến mức sinh thấp trong khu vực.
Tại hội nghị, hơn 1.000 chuyên gia cùng thảo luận các chủ đề như kích thích buồng trứng, cá thể hóa điều trị, vô sinh ở nam giới, bảo tồn khả năng sinh sản…