Nếu ám ảnh sợ hãi là sự thôi thúc phải né tránh gì đó, thì cuồng loạn lại là sự thôi thúc chúng ta phải làm gì đó.
Hội chứng sợ, hay ám ảnh sợ hãi, (tiếng Anh: phobia, xuất phát từ tiếng Hy Lạp: Phobos, chỉ một vị thần của nỗi sợ hãi và kinh hoàng) là một loại rối loạn lo âu (khi sử dụng trong bối cảnh tâm lý học lâm sàng), thường được định nghĩa như là nỗi sợ hãi dai dẳng đối với một đối tượng hoặc một tình huống mà người đó luôn cố gắng tránh né.
Còn Cuồng loạn (tiếng Hy Lạp: Mania trong nghĩa là “điên cuồng” với các trào lưu của xã hội) lại là sự thôi thúc phải làm gì đó.
Trong cuốn Từ điển những nỗi sợ hãi và cuồng loạn, tác giả Kate Summerscale đưa chúng ta vào hành trình tìm hiểu nguồn gốc, cơ chế tâm lý của những nỗi ám ảnh, góp phần khai quật lịch sử về sự kỳ lạ của con người từ thời trung cổ cho đến ngày nay.
Tác giả cũng đưa ra 99 nỗi ám ảnh sợ hãi (phobia) và cuồng loạn (mania) được sắp xếp theo thứ tự bảng chữ cái tên tiếng Anh từ Ablutophobia (chứng sợ sạch sẽ) đến Zoophobia (chứng sợ động vật), hoặc có thể chia thành các nhóm chủ đề như: chứng ám ảnh sợ động vật (sợ mạt, sợ mèo, sợ nhện, sợ chó, sợ côn trùng, sợ rắn…); chứng sợ kết cấu (sợ len bông, sợ lông thú, sợ lông vũ, chứng sợ lỗ); chứng sợ liên quan đến cơ thể (sợ máu, kim tiêm hay vết thương, sợ sinh đẻ, nôn mửa…); lo ngại công nghệ mới (sợ đi máy bay, sợ đi tàu hỏa, sợ nghe gọi điện thoại); chứng tiếng ồn; chứng sợ bị cô lập…
Đồng thời, tác giả cũng đưa ra lời giải thích và một số phương pháp điều trị tích cực, hiệu quả cho những nỗi sợ hãi và cuồng loạn mạnh mẽ nhất.
Sợ lỗ là một trong các hội chứng sợ kết cấu. (Nguồn: Flickr).
Đề cập đến nguồn gốc của ám ảnh sợ hãi và cuồng loạn, tác giả sách cho biết vào năm 1786, Benjamin Rush, một nhà lập quốc của Mỹ, đã khơi mào phong trào đặt tên cho các cảm giác này. Ông đã gộp cả hai thành hiện tượng tâm lý trên và định nghĩa ám ảnh sợ hãi là nỗi sợ cái gì đó quỷ quái do ảo tưởng mà ra, hoặc là nỗi sợ hãi quá mức một thứ có thật.
Sau Rush, các bác sĩ tâm thần ở thế kỷ sau đó đã xây dựng được hiểu biết phức tạp hơn về những đặc điểm này. Họ xem các chứng ám ảnh sợ hãi và cuồng loạn là các đặc điểm thú vị về lịch sử của quá trình tiến hóa cũng như của chính mỗi cá nhân chúng ta, thể hiện những bản năng động vật đã tàn phai và những ham muốn bị ta kìm nén.
Trong cuốn sách, Kate Summerscale đã trưng dẫn nhận định của học giả David Trotter cho rằng “Ám ảnh sợ hãi cụ thể hóa những lo âu”, “đến mức những đặc điểm cụ thể của chúng trở nên có thể cảm thấy và nhận biết được, và do đó có thể được ứng phó hay né tránh”.
Chứng ám ảnh cuồng loạn, tương tự, có thể tích hợp nhiều nỗi sợ và ham muốn. Những ám ảnh cá nhân này có thể được coi là sự cuồng loạn của những người tỉnh táo; có lẽ, những sự cuồng loạn đó giúp ta giữ được sự tỉnh táo bằng cách kết tinh lại nỗi sợ cũng như ham muốn của bản thân, và cho phép ta tiếp tục hoạt động bình thường như thể mọi thứ đều hợp lý.
Tác giả sách cũng dẫn quan điểm của các nhà tâm lý học tiến hóa, cho rằng các chứng ám ảnh sợ hãi là một phần di sản tiến hóa của loài người, những nỗi sợ “được chuẩn bị sẵn về mặt sinh học” được thiết kế để bảo vệ ta khỏi các mối đe dọa bên ngoài. Phản ứng với ám ảnh sợ hãi phần nào giống những phản xạ mang tính bản năng. Khi phát hiện đối tượng hay tình huống là mối đe dọa, bộ não nguyên thủy sẽ giải phóng các hóa chất giúp ta chiến đấu hoặc bỏ trốn, và phản ứng thể chất của ta – rùng mình hay chùn bước, đổ mồ hôi hay buồn nôn – dường như xâm chiếm lấy ta.
Tuy nhiên, lối giải thích theo tiến hóa của chứng ám ảnh sợ hãi căn cứ vào việc tiến hóa là cái đến trước, và nó không giải thích được cho mọi ám ảnh sợ hãi, hay lý do một số cá nhân thì có ám ảnh sợ hãi còn số khác thì không. Năm 1919, hai nhà tâm lý học hành vi người Mỹ James Broadus Watson và Rosalie Rayner đã thiết lập một thí nghiệm chứng minh rằng, một chứng ám ảnh sợ hãi có thể được hình thành do hoàn cảnh.
Tiếp đó, vào thập niên 1960, Albert Bandura chứng minh rằng một chứng ám ảnh sợ hãi cũng có thể xuất hiện do tiếp xúc với nỗi lo âu và sợ hãi phi lý của người khác, chẳng hạn như cha mẹ. Gia đình truyền lại nỗi sợ chẳng khác gì gen di truyền. Tuy thường chịu ảnh hưởng của một mối lo âu nhất định, chúng vẫn cần được kích thích bởi trải nghiệm hay giáo dục.
Nếu ám ảnh sợ hãi là sự thôi thúc phải né tránh gì đó, thì cuồng loạn lại là sự thôi thúc phải làm gì đó. Hầu hết chứng ám ảnh cuồng loạn được tác giả đề cập trong sách (như các chứng cuồng loạn cộng đồng: chứng cuồng sách, chứng cuồng nhóm nhạc The Beatles, chứng cuồng bị quỷ ám, chứng cười cuồng loạn…; các chứng cuồng loạn cưỡng chế: cuồng lang thang, cuồng viết lách, cuồng giết người, cuồng la hét, cuồng mua sắm… là những hành vi mang tính ám ảnh, tập trung vào một đối tượng, hành vi hay ý tưởng nào đó.
Giống chứng ám ảnh sợ hãi, chúng hay được quy cho sự mất cân bằng hóa học trong não, và đôi khi là những cảm xúc tiêu cực hoặc bị cấm đoán.
Thường thì chúng phóng đại các ham muốn thông thường – muốn cười, la hét, mua sắm, ăn cắp, lừa dối, châm lửa, quan hệ tình dục, phê thuốc, cạy vảy vết thương, đầu hàng trước khổ đau, được tán dương.
Cùng những thôi thúc cá nhân, tác giả cũng nói tới cả những chứng cuồng loạn cộng đồng, khi mà người ta cùng nhảy, cùng cười, cùng run rẩy hay cùng gào thét.
“Ám ảnh sợ hãi hay cuồng loạn cũng giống như thần chú, ban cho một vật thể hay hành vi những ý nghĩa bí ẩn và sức mạnh để tạo thành ám ảnh và biến đổi chúng ta.
Những tình trạng ấy có thể tạo ra cảm giác áp chế, nhưng cũng phù phép lên thế giới quanh ta, khiến nó trở nên đáng sợ và sinh động như trong cổ tích. Chúng tạo ra một tác động hữu hình, hệt như phép thuật, và khi ấy ta bộc lộ sự kỳ lạ của bản thân”, tác giả sách viết.